Phạm Chinh Đông















Nhạc Phạm Chinh Đông:
Chút Hương Trần Gian
Lâm Thanh

Đồng hương Trà Vinh thường nhắc tới nhạc sỹ Trúc Phương sau khi ông đã thành danh và được nhiu người khác nhắc tới. Trường hợp Phố Thu cũng vậy. Chúng ta thường hay biết trễ, vinh danh trễ những nhân tài của tỉnh nhà, có lẽ vì ít lưu tâm, hoặc chậm tìm hiểu hay chưa có ai giới thiệu trước. Chúng tôi không muốn đi sau như vậy nữa đối với trường hợp một người đồng hương cũng rất tài hoa của Trà Vinh. Đó là Phạm Chinh Đông. Trong năm qua anh vừa cho phát hành một CD nhạc với tên là “Chút Hương Trần Gian”.

Trước khi giới thiệu kỹ hơn v đĩa nhạc này, thiết nghĩ cũng nên nhắc sơ qua v con người Phạm Chinh Đông. Quê Anh ở Biên Hòa nhưng vì vận nước đẩy đưa, trước 75 anh v làm việc tại Long Toàn rồi mọc rễ luôn cũng ngay tại vùng đất nhiu thương khổ đó. Chúng ta rất cảm động v việc anh chọn Trà Vinh làm quê hương, càng quí mến anh hơn và coi anh là đồng hương quá ruột thịt khi anh đã từng vì Vĩnh Bình mà chịu quá nhiu gian nguy trước đây và những ngày tháng quá lận đận sau 75. Quê vợ anh ở Cái Đôi, Long Vĩnh. Tôi không thể không nói là tôi đã dành cho anh và gia đình vợ con anh sự quí mến chân thành. Sau khi “học tập” thật tốt ngay tại chính Long Toàn, anh đã được đi định cư tại Hoa Kỳ vào cuối tháng 8 năm 1996 theo diện HO và hiện sống ở thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, thuộc min đông Hoa Kỳ. Anh là người đa tài. V phương diện văn nghệ anh thường xuất hiện trên nhiu Đặc San Xuân Trà Vinh với những bài tùy bút độc đáo, mà nhiu lần tôi muốn gọi anh là vănsỹ. Anh thường lấy tên nhân vật là Năm Hiệp, đó là tên thật của anh. Bây giờ anh viết nhạc.

Bên cạnh những bản nhạc của Bác sỹ Trần Cao Thăng viết v Càng Long, bài Em gái Trà Vinh, và một đồng hương khác tên Nguyễn Châu viết v Tiểu Cần đăng trong các Đặc San TV, chưa lần nào thấy có nhạc Phạm Chinh Đông. Đùng một cái, Năm Hiệp cho ra một album nhạc tình thật xuất sắc: “Chút Hương Trần Gian”. Nội cái tựa không nghe cũng đã thấy hấp dẫn rồi. Quả thật đây phải là tác phẩm của một người có tâm hồn, có khiếu v nhạc và có trình độ nghệ thuật già dặn. Tất cả bấy nhiêu đủ để cho chúng ta gọi Phạm Chinh Đông là một nhạc sỹ. Vậy là Trà Vinh có thêm một nhạc sỹ, mà đáng lẽ chính chúng ta phải là người biết trước, ái mộ trước và hơn hết giới thiệu với nhau và bạn bè trước.

CD nhạc Chút Hương Trần Gian gồm có 12 bài, một trong đó có đăng trong Đặc San Trà Vinh năm nay là “Chút Nắng Quê Hương”. Trong phần mở đầu và giới thiệu có những lời như thế này: Tâm tình của một thời thanh xuân không còn nữa, như một chút hương trần gian, xin còn mãi những thơm tho...Nghe đi nghe lại 12 bài ca, cảm tưởng chung của tôi là buồn quá. Buồn đây không phải là do cái âm điệu réo rắt, lời ca ướt át, mà chính ở chỗ nhạc sỹ đã nói lên được nhiu nỗi buồn của lứa tuổi chúng ta. Tuy chủ đ của dĩa nhac là tình yêu, v mối tình đã mất hay những cuộc tình không tên nào đó, nhưng PCĐ cũng gởi gấm nhiu thổn thức khác v phận người, vận nước và tình hoài hương. “Tôi có nỗi buồn không ai thấy đâu”!! Một bài của anh có lời ca như vậy, nhưng câu ca bâng quơ đó lại làm cho người nghe biết nhiu hơn, thông cảm nhiu hơn. Nhạc của Pham Chinh Đông không ủy mị. Dù trải qua nhiu khổ đau, anh không trách người hận đời, lời ca vẫn hin hòa như phát xuất từ một tấm lòng bao dung độ lượng. Anh cảm ơn tất cả những gì mà đời đã mang đến cho anh. Buồn vui gian khổ cũng đu cảm ơn!! Trong bài “Tạ ơn người” có câu: “Tôi xin tạ ơn ai... đã đưa tôi vào vùng trời.., vùng trời nước mắt có mây giăng nhiều trên đường vắng…”. Hầu hết bản nhạc được viết theo cung trưởng, với kết cấu tương đối bình dị hin hòa, tiết tấu âm thanh cũng không réo rắt, mà linh động nhẹ nhàng, do đó âm hưởng lúc nào cũng ngọt ngào, bồng bnh, lâng lâng, lưu lại ấn tượng buồn dài man mác, khó phai mờ trong tâm thức người nghe. Mở đầu bằng bài Như loài chim sơn ca, rồi Chút nắng quê hương, Từ trong cửa lớp, Ngày của người, Chút tình xót xa và chấm dứt bằng bài “Vẫy tay chào nhau” với nỗi buồn xa xôi vời vợi!.. Những mộng mơ đầu đời, những kỷ niệm thần tiên, giờ như xa quá, cao quá, mất hút, như thuộc v cõi tiên xưa của một tin kiếp. Thôi cũng đành vĩnh viễn xa nhau! Làm sao tắm được hai lần trên dòng suối
tiên hoa mộng ấy! Vẫy tay chào nhau đi em! Vẫy tay chào nhau đi em!!!

Anh đã viết văn rất hay. Trong nhạc lời lẽ cũng cũng thấm sâu vô lòng người. Có nhiu khúc âm điệu thật phóng khoáng, lời ca thật thanh tao, Anh từng sống ở Đà Lạt sương mờ, diễm ảo. Có nhiu khi tôi bắt gặp hơi nhạc Từ Công Phụng trong Chút Hương Trần Gian của anh. Có phải những người sống nơi cảnh non bồng có tâm hồn phiêu phiêu và cảm xúc nhẹ nhàng tương tự nhau?

Tất cả12 bài hát có lẽ được những ca sỹ địa phương trình bày. Xin lỗi tôi chưa từng quen tên. Nhưng hầu hết các giọng ca rất điêu luyện và rất gợi cảm. Thanh Hoa, Thanh Duyên, Minh Trí, Thùy Dương, Quốc Duy, Huy Thế, Ngọc Sương v.v. mỗi người một vẻ. Tôi cũng bắt bị “cảm” mấy giọng ca này. Phạm Chinh Đông còn có được dàn nhạc thật xuất sắc góp công thực hiện dish. Chắc phải là ban nhạc có tầm vóc. Lối chơi thật đa dạng, hòa âm tuyệt vời, bay bướm. Tai tôi nghe thấy rất nhiu thanh âm phong phú của nhiu nhạc khí đặc biệt đã chuyên chở được mọi ý nhạc của Phạm Chinh Đông.

Như vậy Phạm Chinh Đông đã là một nhạc sỹ. Dầu anh không muốn nhận “danh hiệu” đó thì anh cũng đã từng được xem là nhạc sỹ. Vì người Trà Vinh ít nghe nhạc (chắc) nên chưa thấy đồng hương nào nhắc cho nhau biết điu đó. Tôi không rành nhạc lắm nhưng mạo muội viết mấy dòng này với tấm lòng, xin tránh cho tôi làm việc phê bình. Và cũng may thay! Nhờ một sự tiếp xúc gần hơn, chúng tôi mới biết thêm anh đã từng sáng tác nhạc từ xưa, trước ngày oan nghiệt đổi đời. Hồi còn là cậu sinh viên măng sữa, PCĐ có sáng tác mấy bài hát rất phổ biến như: "Trên cành cây cô đơn" sáng tác năm 1968, ký tên Phạm Ngọc Hiệp,do hòa âm Lê Văn Thiện, Khánh Ly thu băng và Châu Hà hát trên Đài-Phát Thanh, “Chuyện Mưa Mây” (1969) mà ca sỹ Hương Lan đã hát lần đầu do ban nhac Nhã Ca thực hiện 1970, hiện nay cũng được thu thanh trong nhiu dish qua các giọng ca Chế Linh, Trường Vũ và Mạnh Quỳnh. Bài thứ hai là “Trả Lại Người Tình”, 1970, do Chế Linh ca. Bài này viết lúc anh rời thành phố để nhập ngũ Đà Lạt nên ban sơ bản nhạc có tên là “Giã Từ Thành Phố”. Bài thứ ba là “Đã Lỡ Duyên Rồi”, 1970, viết chung với Anh Việt Thanh do Thanh Phong ca.

Nhưng! Không phải chỉ có bấy nhiêu thôi. Phạm Chinh Đông, nhạc sỹ khiêm nhường hay ẩn danh của quê mình, sẽ còn ra tiếp một CD thứ hai tại hải ngoại trong dịp đầu năm 2008 này. (*)

Xin cảm ơn Phạm Chinh Đông. Trân trọng giới thiệu cùng tất cả đồng hương Trà Vinh những tác phẩm nghệ thuật quí báu. Cần có, để thưởng thức giải khuây, để nhớ, để kỷ niệm đời ly hương và để sưởi ấm lòng nhau. Trân trọng./.

Lâm Thanh,
Australia, ngày 29 November 2007.
(*) Ghi chú:
Nếu quí vị hay các bạn nào thích CD nhạc PCĐ vui lòng liên lạc với Phạm Ngọc Hiệp. Xin mở trang danh sách đồng hương ở cuối Đặc San Trà Vinh sẽ thấy rỏ địa chỉ và số điện thoại.

Khi Chia Tay

ngày ấy

Chiu đã tím trên lưng đồi hoa trắng
Rừng thông xanh vừa rũ ngọn sương mù
Đường đất đỏ bước chân người xa vắng
Em v rồi, em có hiểu gì chưa ?

Anh ngồi đây ngắm từng con én lượn
Nghĩ bâng quơ v mùa xuân sơ sinh.
Có áo em màu xanh trời ước mộng
Nụ hoa hồng anh trồng lên tóc em.

Em cứ v ngủ yên thời tuổi nhỏ
Mắt nâu hin đừng thao thức đêm nay.
Anh sẽ viết những bài ca thật nhỏ
Thả mây bay trên đầu tuổi thơ ngây.

bây giờ

Em ở đó thở than đời hoang phế
Áo xưa phai còn nước mắt tình đầu.
Tóc sẽ trắng gọi mưa v kể lễ
Rất tình cờ em có một min đau.

Đừng thảng thốt để nghe đời âm động
Lá cây khô vừa thức giấc đầu ngày.
Em có biết ngọn nguồn xưa thật vắng?
Dấu chân người thành cổ tích từ đây.

Xa lắm rồi người lang thang góc bể
Kẻ chân mây vẫn đưa mắt trông vời.
Có than thở, có nghìn đời kể lễ
Chỉ là mơ, là mộng một mình thôi.

Phạm Chinh Đông


Xin còn thơm chút hương trần gian
● Một mai tóc bạc da mồi
Ba mươi năm nhớ một lời biệt ly
( Ngọc Phi )



1.
Nghe nhạc, đọc thơ thường đưa người ta về những hồi ức ở rất xa trong quá khứ. Thứ cảm gíac có thể làm sống lại cả một quãng đời thanh xuân trai trẻ mấy mươi năm. Hôm trước, trong những giây phút nhàn rỗi hiếm hoi của một ngày bận rộn, tình cờ tôi xem được trên truyền hình đọan phim một ông gìa tóc bạc , một mình trong căn phòng nhỏ, trước mặt ông là chiếc máy điện thọai mở sẵn. Ông từ từ nâng cây đàn violon, mắt nhắm lại, rồi say sưa kéo một bài nhạc tình rất cũ, miệng ư ử hát theo những âm thanh không rõ nét. Phía bên kia của đầu dây điện thọai, một phụ nữ tóc cũng bạc không kém, tay đặt sát ống nghe vào tai, đôi mắt tha thiết theo tiếng nhạc, và rồi bà cũng cất tiếng hát theo giọng vĩ cầm bên kia đầu dây. Họ là hai người tình của nhau từ một thuở nào lâu lắm. Đời chia họ đi hai ngã. Đến lúc tình cờ gặp lại nhau sau khi đã kinh qua mọi đắng cay ngọt bùi của cuộc đời thì họ lại không còn trẻ nữa. Có trẻ chăng chỉ là kỷ niệm về bài hát một thời đánh dấu những ngày họ yêu nhau và tưởng rằng không có gì có thể chia cách được tình yêu của họ. Dầu vậy, cái giây phút mà hai người ở hai không gian khác nhau, mượn đường truyền điện thọai để cùng sống lại với nhau quãng đời thơ mộng ấy, thật tuyệt. Đời người trăm năm, nhưng những khỏanh khắc tuyệt vời ấy, không nhiều và không dài.
Vài ngày sau đó, tôi nhận được CD nhạc của một người bạn nhạc sĩ với 12 bài tình ca chứa đựng trọn vẹn những cảm xúc của một người đã bước đi từ những ngày xanh cho đến những ngày vàng. Cuối đời, bỗng thấy nhớ mối tình tưởng đã lãng quên từ lâu, như hai nhân vật trong đọan phim tôi mới được xem.
Tha thiết một ngày
chờ nhau tóc trắng,
ai biết một ngày
chia nhau nhớ nhung,
ai biết một ngày
mình xa nhau từ đấy.
( Nỗi buồn không thấy – Nhạc: Phạm Chinh Đông )

2.

Tháng Hai, trời còn rét ngọt. Không biết có phải vì thế, mà ở phương tây, người ta gọi tháng Hai là tháng của tình yêu, của lễ hội Valentine, của những người yêu nhau, trẻ cũng như gìa. Tôi thóang nghe lao xao các con tôi muốn mẹ chở đi mua thiệp và quà Valentine cho các bạn học cùng lớp. Đám bạn gìa chúng tôi vốn không quen với tập quán mới mẻ này ( dù rất đáng yêu ) nơi xứ người, nhưng món quà của người bạn nhạc sĩ quen biết từ mấy chục năm nay của tôi, đến vào một thời điểm thật thích hợp. CD nhạc mang cái tên như một sự tiếc nuối ( một thời đã qua ) : Chút Hương Trần Gian .

Bắt đầu từ những thác nguồn trăn trở, từ những đồi thông rét mướt trong sương mù Đà lạt, một cuộc tình đã đến và rồi đã đi, sáng ngời nhưng đơn sơ như lá Mimosa, bên con dốc ngày nào còn mượt mà dấu chân tình nhân bé bỏng. Xa lắm rồi, người lang thang góc biển , kẻ chân mây vẫn đôi mắt trông vời .
( Lời Mở Đầu – CD Chút Hương Trần Gian )

Quả thật, anh bạn tôi mưốn mượn âm thanh và chữ nghĩa để ghi lại những “ tâm tình từ một thời thanh xuân không còn nữa , như một chút hương trần gian vẫn còn mãi thơm tho “ . Đã là một thứ định luật, càng đi dần về phía cuối đường ( đời ), người ta càng ý thức được cái ngắn ngủi , hữu hạn của trần gian. Và vì sợ rằng không còn dịp sống lại những gì đã qua, người ta thường hay ngoái cổ nhìn lại, để tiếc nuối, để ân hận hay để gặm nhắm chút hương vị ngọt ngào của thú đau thương. Người có tâm hồn nghệ sĩ và khả năng trời cho như anh bạn nhạc sĩ của tôi, thì cố gắng biến những riêng tư của mình thành những tác phẩm nghệ thuật cho đời , và cho mai sau thưởng ngọan. Riêng tư thật, nhưng trong đó, vẫn chứa đựng rất nhiều những cái chung . Ai mà không có một thời để yêu, một thời để hối tiếc , và một thời ngồi nhìn quá khứ, trước khi đi vào một thời để . . . chết đang chờ sẵn. Có lẽ vì thế mà âm nhạc, thơ phú luôn luôn có mặt trong mỗi chặng đường đời người ta đi qua. Mỗi hai kẻ yêu nhau đều có một bài nhạc, bài thơ mà khi nhắc đến, nghe lại, họ tưởng chừng như hơi ấm của nhau vẫn còn quanh quẩn đâu đó như thể họ mới vừa chia tay nhau lúc nãy.

Ngày đó
khi ta xa nhau,
đời nghiêng xuống những cơn mưa sầu.
Tình chia trên đôi môi khô
một lần thôi là hết.
Đời đưa ta đi muôn phương,
một hôm giá buốt len trong hồn,
đời chia như trăm con sông
( Ngày của người – nhạc: Phạm Chinh Đông)

Tình yêu thời nào cũng có, vì người ta không thể sống thiếu tình yêu. Tình yêu bao giờ cũng đem lại cả hạnh phúc lẫn khổ đau, vì nếu thiếu một trong hai thứ, thì sẽ chẳng có thứ nào cho ra hồn. Và khi khổ đau nhiều hơn hạnh phúc, người ta gọi đó là cuộc tình buồn. Và, hình như, cuộc tình nào cũng buồn cả. Có nghĩa, “ yêu là đau khổ “, cho nên :

tôi khóc cho người
một cuộc tình buồn.
Con nuớc về xuôi
thôi hết người ơi
yêu đương qua rồi
lòng còn đớn đau.
. . . . . . .
Gom thời gian
cho tôi tiễn người về muộn màng.
Khi xa người
không còn nụ cười
từ đó.
Từ đó
người về bước chân nhọc nhằn
ăn năn lệ đời mưa xuống.
( Tôi khóc dùm người – Nhạc: Phạm chinh Đông)

3.

Nhạc và lời của Phạm chinh Đông mượt mà, nhẹ nhàng, không khúc mắc, không làm dáng. Anh viết nhạc từ lúc chúng tôi còn là những chàng thanh niên ngây thơ tội nghiệp, cầm được bàn tay một cô gái nào đó là người cứ run lên, lòng lâng lâng sung sướng và cảm gíac lâng lâng ấy cứ theo chúng tôi vào những giấc ngủ mộng mị nhiều tuần lễ liền sau đó. Thuở còn học trên một quân trường ở Đà Lạt, anh đã nổi tiếng với những bài nhạc tình thơ mộng và có thật của riêng anh. Trong lúc chúng tôi bận rộn với những bài vở cho những buổi học văn hóa, hay phờ người sau những buổi học quân sự, thì anh bạn nhạc sĩ của chúng tôi lúc nào cũng khoan thai, nhẹ nhàng như những bài nhạc tình và mối tình của anh, vẫn cây đàn và tập giấy kẻ nhạc. Với Phạm chinh Đông, dường như chỉ có âm nhạc là điều anh quan tâm nhất, sau gia đình , bạn bè và những bổn phận . Và , một đặc điểm nữa ở Phạm Chinh Đông, dù viết nhạc đã hơn 30 năm nay, dù đã trải qua trăm cay ngàn đắng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ những trại cải tạo khủng khiếp đến những vùng kinh tế mới thiếu thốn cực khổ, nhạc của Phạm Chinh Đông vẫn chỉ là nhạc tình. Những than van, buồn bã trong nhạc của anh cũng chỉ là về những mối tình nay đã không còn đất sống trong một thực tại khắc nghiệt. Dường như ở những kẻ nòi tình thì âm nhạc chỉ có một chức năng duy nhất là ca tụng tình yêu, dù đó là tình buồn hay tình vui, tình đau hay tình chất ngất, chứ ít khi có tình thù ( dù bị phụ rẫy , thì cũng nhẹ nhàng “ thôi em đem về đốt hết mai sau “ -Tôi khóc dùm người ) hay tình hận. Nhạc của Phạm chinh Đông được nhiều ca sĩ thu thanh vào Album riêng của họ, nhưng không ai để ý tìm hiểu xem tác gỉa những ca khúc ấy là ai, dù có biết, chắc họ cũng không bận tâm hỏi anh một tiếng, chứ đừng nói gì đến tác quyền. Vậy mà anh bạn nhạc sĩ hiền lành của tôi vẫn không mảy may thắc mắc, than phiền. Với anh, đó không phải là điều anh quan tâm . Vì, theo anh, những tình khúc của mình chỉ là chút hương trần gian, nếu ai đó có lòng yêu mến, đem phổ biến chúng giữa cuộc đời thì cũng là làm công việc anh mong mỏi : mong sao giữ được cái mãi mãi thơm tho của hương trần gian ngắn ngủi.

Một đời thăng trầm chúng mình đã đi qua, cách này hay cách khác mà cách nào cũng hoạn nạn nhiều hơn diễm phúc, khổ đau nhiều hơn vui mừng. Qua đi, qua đi, những cơn mê. Tình này chồng chất lê thê. Được, thua rồi chẳng còn gì. Chỉ còn lại là những kỷ niệm rực rỡ của một thời thanh xuân không bao giờ tìm thấy nữa. Giờ đây, tạm yên thân nơi xứ lạ quê người, cũng là lúc dọn mình đi xuống. Xuống một nơi bình yên nhất của một kiếp nhân sinh phù du.

Và trên con đường buồn bã kia, chỉ có hơi ấm ở hai bên : vợ con và bạn bè ngày cũ.
Cầu xin mọi người giữ mãi ngọn lửa nhỏ nhoi này.
( Phạm Chinh Đông)
4.
Thi ca ( thơ và nhạc) luôn luôn là thứ thực phẩm thượng thừa của trần gian. Nó nâng tâm hồn con người lên đến chỗ trang trọng nhất của cái Đẹp, chỗ trường cửu nhất của cái Hữu hạn. Xưa nay, đã có biết bao “ chàng phiêu lãng ôm đàn tới giữa đời “ (Tà Áo Văn Quân – Nhạc Phạm Duy Nhượng ), biết bao “ con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi “ ( Lời Thơ Vào tập Gởi Hương – Thơ Xuân Diệu ), vậy mà thứ thực phẩm hảo hạng ấy dường như không bao giờ đủ cho nhu cầu trần thế . Cho nên, CD nhạc Chút Hương Trần Gian của Phạm Chinh Đông , một tập hợp bao ao ước của một đời loay hoay với những con chữ và những nốt nhạc, nay, trước khi thanh thản “ dọn mình đi xuống. Xuống một nơi bình yên nhất của kiếp nhân sinh phù du “ , được anh gời đến bạn bè vào những ngày tháng Hai buốt gía của mùa Đông xứ người, như một đóng góp nhỏ nhoi vào việc cung cấp cho đời thứ thực phẩm hiếm quý, thứ mùi thơm trần gian tuy ngắn ngủi mà dư hương của nó sẽ còn đọng lại mãi mãi đến ngàn sau. Cũng vì thế, lòng tôi tràn ngập hạnh phúc khi ngồi trong căn phòng viết ấm cúng, nhìn ra bên ngòai những lọn tuyết bay đầy bầu trời đêm trắng xóa, với tiếng ca lời nhạc Chút Hương Trần Gian phủ kín không gian. Nhờ vậy, tôi ý thức hơn lúc nào hết rằng trần gian này đáng yêu biết bao, đáng sống biết bao và cũng đáng . . . tiếc nuối biết bao.
Xin được bắt chước những người trẻ tuổi đang hân hoan mừng lễ hội tình yêu , đang tha thiết gởi đến nhau những nụ hoa tình đẹp nhất đời thanh xuân, tôi muốn hòa giọng cùng anh bạn nhạc sĩ thân mến nói lên lời tạ ơn Chút Hương Trần Gian.
Tôi xin tạ ơn,
tôi xin tạ ơn người
cho tôi tình vui
dù phút giây thôi.
( Tạ Ơn Người – Phạm Chinh Đông ).
© T.Vấn 2007

PHẠM CHINH ĐÔNG, NGƯỜI CON TÀI HOA CỦA XỨ BƯỞI.

Bằng một động tác đơn giản mà tiếng chuyên môn gọi là “Click”  và Việt Nam trong nước tạm dịch dễ hiểu là “Nhấp chuột” vào Google Chrome và đánh máy tên Phạm Chinh Đông bằng tiếng Việt có dấu, chúng ta “bắt gặp” Phạm Chinh Đông ngay ở Trang Nhất và rải rác các trang sau.
Nếu đã biết bút danh Phạm Chinh Đông (PCĐ) hay là bạn bè anh từ lâu thì không ai ngạc nhiên vì anh PCĐ đã làm thơ, viết văn, và sáng tác nhạc từ hơn 30 năm về trước.
Cũng qua thông tin từ nguồn dẫn trên, từ nhiều Web, chúng ta lại biết thêm, PCĐ là người mang 50% dòng máu từ Xứ Bưởi Biên Hòa với Cha sinh ở miền Bắc và Mẹ là người ở đầu cầu Rạch Cát (Biên Hoà). Có lẽ sông Đồng Nai cùng bưởi ngọt đã tắm gội cho tâm hồn anh một hương hoa đặc biệt nên những sáng tác của anh đậm chất quê hương và mang mùi hoài cổ.
Trong một chi tiết khác, anh PCĐ đã cho ta biết anh là Cựu học sinh Ngô Quyền (Biên Hoà) mà người Thầy anh còn nhớ là Thầy Phiên. Đó là một ký ức quý báu về nơi mà anh đã học tập, lớn lên và được hình hình thành một nhân cách.
Tôi chưa có dịp đọc hay nghe hết những tác phẩm của anh, nhưng qua vài tác phẩm đã có dịp thưởng thức, tôi cảm nhận ngay, bằng cảm xúc đời thường của mình, Tác giả PCĐ còn nặng nợ với quê hương và bạn bè cũ nhiều lắm vì đâu đó vẫn lãng vãng hình bóng cũ trong các sáng tác của anh.
Với Văn, qua “Quê Nhà”, dù anh đã đổi tên nhân vật trong truyện, nhưng nếu ai tinh ý sẽ thấy một PCĐ  rõ nét hơn với Cù Lao Phố, nơi thân thiết không thể bỏ qua khi nhắc tới Biên Hòa.
Với Thơ, bài “Hương Cũ” với giọng ngâm truyền cảm lạ lùng của Hương Trinh (được giới thiệu là người bạn đời của anh), chúng ta thấy cả một trời quê hương mà tác giả mang theo mình trên bước đường khó khăn nơi đất lạ .
Với Nhạc, qua các CD “ Bóng Mây”,” Chút Hương Trần Gian ”,” Tâm Tình Để Lại” và vài bài nữa, PCĐ đưa ta về khung trời kỷ niệm cũ qua nốt nhạc và lời nhạc bình dị, trong sáng:  muợt mà mà không ủy mị, đau thương mà không tiêu cực, khổ đau mà không hận thù gai góc.
Những bản nhạc với âm giai Thứ đưa người nghe gần lại với cảm xúc chân thật hơn.
Chúng ta chào đón PCĐ  hôm nay như dang tay đón người con, người thân, bạn bè … của Biên Hòa và Đại gia đình Ngô Quyền đã đi xa, mới trở về, đã cách lâu, nay mới mừng gặp lại.
Xin giới thiệu anh PCĐ lần này với vai trò nhạc sĩ qua ca khúc “Nỗi Niềm” viết về Cha đầy tình cảm chân thật, chứa chan trong nhiều ca khúc như anh đã viết qua Blogs cá nhân: “NHỮNG NHẠC KHÚC VIẾT BẰNG TÌNH THƯƠNG CÓ THẬT”.
(xin xem thêm về PCĐ qua Web: t-van.net/nhac hoặc qua www.phamchinhdong.blogspot.com)
TRẦN NGỌC DANH
(Cựu Học Sinh Lớp Đệ nhị C, năm 1966, Ngô Quyền)

 

Bên Này Sông Long Toàn   
Tỉnh Vĩnh Bình, bây giờ gọi là Trà Vinh, có cả thảy 7 quận: Châu Thành, Càng Long, Cầu Kè, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Long Toàn, bây giờ gọi là Duyên Hải, là quận heo hút nhất, trãi dài theo bờ biển. Kinh rạch chi chít trong những khu rừng lá dừa nước có chen lẫn cây tạp, nước mặn, muỗi độc đầy trời. Chỉ có một con lộ lớn duy nhất nối từ thị xã, ngang qua quận Cầu Ngang, băng qua một con sông lớn để vào địa phận Long Toàn. Đó là sông Long Tòan. Trước 1975, chi khu và quận đường ở phía bờ tây, cách sông Long Toàn khoảng 4 cây số. Sau này, Cộng Sản đổi tên gọi thành Huyện Ủy và dời về phía bờ đông.
Từ lâu đã có một cây cầu sắt bắt qua con sông Long Toàn này. Dân chúng qua lại làm ăn thoải mái. Từ cuối năm 1963, sau khi toa rập giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, những tay đầu sỏ Sài Gòn liên tục hùng hục tranh ăn, bỏ ngỏ miền Nam cho Cộng Sản miền Bắc tha hồ xâm nhập, mở đầu cho cuộc bỏ chạy nhục nhã 12 năm sau. Trong bối cảnh đau lòng đó, năm 1965, Cộng Sản thả dàn phá nát con lộ và đem mìn giật sập chiếc cầu. Từ đó, và mãi sau này, qua sông phải dùng đò ngang.
Buổi trưa nắng đỏ. Sông Long Toàn nước chảy cuồn cuộn. Chuyến đò vừa cập bến. Khách trên đò xôn xao đi xuống. Khách dưới bến láo nháo đi lên. Lại có những tay không đi đâu nhưng cũng tất bật ùa xuống đò. Tôi là một tay trong đám đó. Đám xe Honda ôm.
Xứ này là xứ sống bằng nghề thủy sản. Vài năm trước, đám xe ôm chỉ có loe ngoe vài mống túng nghề xách xe chạy bậy. Đến giờ, đập đìa cá tép thưa dần, tôm cua nuôi hồ năm trúng năm thất, những tay chủ đập sạt nghiệp đành trốn nợ bỏ nhà đi xứ khác, những tay mới ngáp ngáp cũng mất vía, hoảng hồn, sang bán đổ tháo rồi mua một chiếc Honda để chở khách, kiếm gạo qua ngày. Vì vậy, riết rồi xe ôm nhiều hơn khách đi. Được một điều, mọi người đều biết nhường nhịn nên không có cảnh giành giật, chửi bới, đánh nhau.
Tôi không có đập đìa gì hết. Tôi chỉ là một người trở về từ trại tù cải tạo với tài sản duy nhất và quý giá nhất là một cô vợ chung thủy và ba đứa con ngoan. Tôi gốc gác Biên Hòa, ngày xưa làm việc ở chi khu Long Toàn này, bị một cô nữ sinh tên là Bé Năm, nhà ở gần đó, trói cổ nên đã nhận nơi nầy làm quê hương ! Khi nước mất, tôi vào tù, như mọi người. Sau sáu năm “học tập tốt”, xấc bấc xang bang, tôi tốt nghiệp, ra khỏi trường tù Bến Giá và về sống bên vợ con ở Long Vĩnh, một xã của quận Long Toàn. Bắt đầu làm lại cuộc đời mới bằng nghề đốn củi bán cho ghe buôn. Rừng lá dừa nước thì nhiều nhưng không thể làm củi. Cây mắm, cây giá, cây bần thì rải rác, chẳng bao nhiêu nên đã cạn  kiệt. Lớp người trước đã đốn hết, chỉ còn để lại phần gốc rễ. Do đó,  tôi không đốn củi mà là... đào củi ! Và đào bằng cây búa lụt nhầy của ông bà già vợ cho ! Không phải ổng bả keo kiệt mà vì cả nhà bấy giờ chỉ có cây búa trành đó mà thôi.
Không bao lâu, chẳng còn củi để đào, tôi xoay qua nghề làm mướn bá nạp. Đào ao, gánh đất, cuốc giồng trồng khoai...ai cần gì, tôi làm cái nấy. Đến một lúc cũng chẳng còn ai mướn vì xóm vốn thưa dân và kẻ dư ăn không có mấy người. Tôi bèn xoay qua nghề sửa xe đạp dù thật tình không biết chút gì cái nghề này. Qua Đôn Châu học lóm ba bữa, tôi trở về hì hục đóng ngay miếng bảng nhỏ “Sơn Sửa Xe Đạp” vào thân cây bạch đàn trước nhà. Ấy thế mà sống đựợc lai rai ! Cũng sửa con chó, nối sên đứt, vá ruột, sơn bằng ống bơm..! Xe đạp xã hội chủ nghĩa xài toàn đồ dỡm nên tôi có việc làm hoài. Có ông nội nào đó, mới thay cái ruột xe mới tinh bữa trước, bữa sau đã dắt tới vá rồi. Mà thiệt khổ, vá xong lỗ này thì xì  lỗ khác. Vá xong đâu vào đấy, cái ruột xe mới giống như một miếng giẻ rách và  tiền công vá muốn bằng tiền mua ruột mới! Phần tôi cũng không khỏi tổ trác.  Anh chàng Ba Hợp xóm trong đặt làm 2 bánh, niềng mới, căm mới. Buổi chiều lấy, buổi tối ló đầu vô nhà. Tôi hỏi:- Tối rồi, đi đâu? Ủa, sao mà tèm lem, tuốc luốc vậy? 
Ba Hợp nhăn nhó:
     - Xe đạp từ chiều tới giờ đi lắc như bàn gằn, tính ra cho anh hay để coi lại, ai dè tới đầu bờ thì lắc luôn xuống mương!
Hóa ra thầy Hiệp bắt căm lỏng le! Xuống mương là còn may đó!
Lúc đó, Tư Chiến, người bạn thân chòm xóm của tôi, trong nhà có sẳn chiếc Honda 67 trùm mền từ ngày Tổng Thiệu vác giò lên cổ chạy ra nước ngòai hưởng đời ăn hút còn  hắn thì tả tơi xách túi vô tù. Một hôm, sau khi đi Trà Vinh về, Tư Chiến đem xe ra chợ Cái Đôi ngồi chong ngóc. Ngạc nhiên, tôi hỏi:
-Chờ ai mà ngồi đây?
Tư Chiến kể lễ:
-Thấy trên thị xã, người ta chở khách bằng Honda, tui thử một bữa coi sao.
Tối hôm đó, Tư Chiến mò tới nhà tôi, hể hả khoe:
-Quá đã! Ngày hôm nay chạy được sáu, bảy ngàn!
Và hắn khẩn khoản biểu tôi ráng tìm cách xoay qua nghề honda ôm cho đỡ khổ hơn. Tôi ham quá nhưng không biết làm sao. Một chiếc Honda cũ rẻ nhất cũng trên dưới 1 cây vàng chớ bộ ít sao! Gia tài sự sản nhà tôi không hơn 2 chỉ. Cuối cùng, vợ chồng đồng ý làm liều: bán cái máy may của ông bà già vợ cho, mượn thêm vàng của bà con mỗi người một ít để mua một chiếc honda cũ và bắt đầu hành nghề xe ôm ngay hôm lấy xe về. Sau vài tuần, gom tiền mua 4 con heo con, nhịn ăn nhịn mặc cho heo ăn, và gần một năm sau thì trả xong nợ vàng. Mừng hú. Kể từ đó, tôi và Tư Chiến trở thành hai tên xe ôm chuyên nghiệp và đầu tiên trong xóm này. Hằng ngày chạy khách loanh quanh cơi Long Toàn, Cái Đôi, Kinh Đào, Cái Cối. Thỉnh thoảng cũng có dịp chở khách đi ngược ra Ba Động, Cồn Cù, nhìn biển trời mênh mông mà buồn nhớ đâu đâu.
Khách qua đò lần lần đi lên. Mấy bà đi chợ về gióng gánh lỉnh kỉnh. Mấy cô cậu học trò tan lớp về nhà, đùa giỡn lao nhao. Mấy ông đầu tóc chờm bơm, râu ria lởm chởm, da sạm đen mốc thích, chắc mới qua chợ huyện bên kia sông mua này mua kia hay đi làm giấy tờ, vay tiền ngân hàng gì đó. Mấy tên xe ôm kiếm được khách đi hớn hở nổ máy chuẩn bị lên đường. Những tên không hên, thản nhiên trở lại dãy quán ăn lụp xụp quanh bến đò, ngồi chờ chuyến khác.
Tôi thường được nằm trong những tên không may đó. Ngày trước, dàn xe ôm còn ít nên khách chở nhiều khi không hết. Đôi lúc phải chịu giận hờn vì chở người này, bỏ người kia. Bây giờ, dàn xe quá đông. Đã vậy, toàn những chàng trai trẻ, xông xáo, năng nổ chào mời tìm khách khiến cho những tay sồn sồn như tôi nhiều bữa phải chịu lỗ tiền xăng, ngồi ngóng gió suốt ngày.
Chuyến đò này tôi không kiếm được mối nào. Cũng may hồi sáng sớm đã làm được một cuốc từ Cái Đôi lên đây. Chở cô nàng Hoa, con bà Hai Giáo ở cùng xóm, đi Long Toàn. Không biết cô nàng làm sở gì, vài bữa vắng bóng, vài bữa chạy về với mẹ, quần áo nhởn nhơ. Người ta xì xầm, con nhỏ này mắc bịnh siđa và công an đang kiếm bắt. Đây là một tin long trời lở đất vì thời buổi đó, xóm nghèo này chưa có chuyện đĩ điếm bao giờ. Cùng lắm là vài cuộc tình vụng trộm của những kẻ yêu nhau trong ngang trái mà thôi, đâu đến nỗi gì. Một lần, sau vài tháng làm phụ hồ bên Cầu Quan, thằng Cốm Đui, con chị Ba Như, dẫn về một cô gái và nói là vợ. Cốm Đui đâu có đui mù gì, chỉ có một con mắt lé và cái tật ba chớp, ba nháng mà thôi. Ba Như khoái chí vì khỏi tốn tiền cưới vợ cho con. Cơm không đủ ăn lấy gì cheo cưới? Ai dè ít bữa có người trên Trà Vinh về cho hay mới té ngữa ra là gái làng chơi ở khu Tiệm Rượu, Hàng Dầu. Vậy là cả xóm mượn công an ấp quyết liệt đuổi cô gái đi ngay, bất kể Cốm Đui nhào lăn dưới đất, khóc la như heo bị thiến. Về sau, Cốm Đui cũng được vợ chồng Hai Mén ở mé rừng gả không cho đứa con gái cưng. Cả hai chí thú làm ăn, chồng làm thợ, vợ chằm lá bán cho ghe buôn, tuy nghèo nàn nhưng thật giàu hạnh phúc.
Đang vẫn vơ chuyện xóm làng, có tiếng người chợt hỏi:
    -Anh có khách chưa?
    Tôi giật mình, quay nhìn vào. Một người đàn ông trạc tuổi tôi, quần áo xuề xòa, đang ngồi một mình với ly đá chanh. Hình như người nầy đã đến từ những chuyến đò trước rồi ghé uống nước ở quán này. Tôi không hiểu hắn muốn gì, ngờ ngợ đáp:
    -Chưa.
    Người đàn ông nói bằng giọng từ tốn:
    -Vậy anh chở tui đi Cồn Trứng được không?
    Thì ra là khách! Tôi mừng hú, có phần khỏi lo là đây. Người khách đứng dậy, theo tôi ra xe, không hỏi giá cả như thói thường, nhanh nhẹn ngồi lên. Nhìn vết thẹo thâm đen ngay giữa trán của hắn, bỗng nhiên tôi cảm thấy không yên tâm chút nào.
Chạy được một lát, khi bắt đầu quẹo vào lộ 81 dẫn ra Láng Cháo, Cồn Trứng, người khách cho tôi biết tên của hắn là Minh.
Tôi hỏi cho vui:
-Tại sao anh chọn tui?
Minh cười hì hì:
-Sợ té! Mấy bố trẻ chạy dữ quá. Bị té một lần xém gãy giò, hoảng rồi. Cở tuổi tụi mình chắc chạy cẩn thận hơn.
Tôi đùa:
-Gặp già dịch thì sao? Nói vậy thôi, đường này đắp bằng đất có té cũng nhẹ thôi. Trặc xương sống là cùng!
-Giỡn hay chơi đó?
-Để coi. Mà anh biết không, tui cũng dự phần "học" đắp nên con đường này đó.
Minh có vẻ thắc mắc:
-Làm dân công hả?
Tôi vắn tắt kể chuyện ngày xưa khi nước mất, đã "học tập" khắp nơi trong vùng này. Bắt đầu từ một đêm đầu tháng 5 năm 1975, kẻ chiến thắng trưng dụng chiếc ghe lá đưa toàn bộ 21 sỉ quan chi khu Long Toàn thất trận vào rừng Mù U để "học". Rồi theo thời gian, dời về Láng Cháo, Khám Lớn Trà Vinh, Bào Sen, Cồn Tàu, La Ghi và cuối cùng là Bến Giá. Toàn là những "bài học" gian nan, bi thiết, suốt đời ám ảnh không rời. Con lộ 81 này đã được đắp lên bằng máu của hai chiến hữu và mồ hôi, nước mắt của hơn 200 chiến sĩ sa cơ.
Minh hớn hở ra mặt khi biết tôi là tên lính cũ. Hắn thì thầm cho tôi biết hắn cũng được đi "học" nhưng xa hơn, miền Bắc, "tốt nghiệp" năm 1982 và đang ở Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa, làm rẫy. Vết thẹo trên trán là kỷ niệm đòn thù ở trại tù Tuyên Quang. Thì ra là vậy! Hai người đồng cảnh bất ngờ gặp nhau nên nói không hết những chuyện dưới đất, trên trời.
Cuối lộ 81 là Láng Cháo. Quẹo phải về Cồn Cù, Động Cao. Quẹo trái về Cồn Tàu, Cồn Trứng, Khoáng Tiều, Nhà Mát, Ba Động. Tôi chỉ long phong về phía sau dãy nhà lá trước mặt để nói với Minh rằng trại tù Láng Cháo ngày xưa ở đó với dãy ruộng muối rộng lớn do chính bàn tay khai phá của đám tù binh. Đâu đó trong đám nhà lá trước mặt này, hồi đó có ông Ba Sài Gòn và bà Sáu Lục. Ông Ba Sài Gòn quê quán ở đây, thời chiến tranh bỏ xứ lên Sài Gòn kiếm ăn, nay về quê sinh sống. Không dè, ông lại là anh họ của Lâm Văn Mầu, người bạn cùng khóa và đang cùng khổ với tôi. Chính ông đã tổ chức đưa Mầu trốn trại bằng đường ghe lên Trà Vinh rồi từ đó đi xe đò về Sài Gòn ở với vợ con. Mầu lại tìm đường vượt biên đường bộ qua Kampuchea. Rủi thay, bị Cộng Sản bắt ở Châu Đốc và đem giam ở trại tù Suối Máu. Ở đó, Mầu anh dũng leo rào vượt trại và bị lính gác bắn chết tại vòng rào thứ nhì.
Bà Sáu Lục cũng mới hồi cư về đây sau chiến tranh. Hình như không có chồng và sống hui hút với đứa con gái chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Bả có sở ruộng hương hỏa cả chục công đất rừng giáp ranh với trại tù, đào ao xẻ mương đàng hoàng. Nhờ vậy, mỗi con nước, cá tép chạy xà ngôm đem bán chợ cũng đủ xây xài cho hai mẹ con. Từ trại tù có một con đường bờ chạy thẳng tới chòm nhà Sáu Lục. Một bữa nghỉ chủ nhật , tôi bàng hoàng khi người bạn tù vong niên, Sáu Hoàng, nguyên trưởng ấp Cờ Đỏ, Càng Long, lớn hơn tôi hơn 20 tuổi, rủ tôi ra nhà bà Sáu Lục làm chuyện "nọ kia" cho vui. Sáu Hoàng nói rất thiệt tình:
    -Tao làm hai ba lần rồi! Bả biểu tao chớ làm sao tao dám!
Tôi hỏi:
-Đi cách nào tới đó được?
Sáu Hoàng đáp:
-Giả bộ đi kiếm cá theo đường bờ phía sau trại, cây già, cây vẹt lung tung, không ai thấy đâu. Mút đường là nhà bả. Chui qua cái hàng rào chà tre là xong, dễ ợt!
-Dễ vậy sao không trốn luôn cho khỏe?
Sáu Hoàng buồn bã:
-Ai không muốn trốn, nhưng trốn rồi làm sao ra khỏi vùng này? Ngoài kia là biển, quanh đây là dân của tụi nó, là rừng chồi, mương xẻo chằng chịt. Nhắm trốn lọt không? Thôi thì ra đó chơi một lát cho đã rồi vô.
Tôi không đi vì không dám chơi dại và cũng nhất định không tin chuyện trời ơi đất hỡi đó. Đến lúc anh chàng Lương đi theo Sáu Hoàng về nói lại, tôi mới chưng hững. Lương khoái trá nói:
-Tao với ổng thay phiên nhau làm. Không tốn tiền bạc gì hết. Bả còn nói "ngày nào không có chịu không nỗi" nghe mậy!
Tôi chỉ còn biết kêu trời:
-Ở tù muốn chết mà chơi với bời! Lạ thiệt!
Nghe Sáu Hoàng nói đám ham vui càng ngày càng đông, trong đó có cả lão Không già lụm cụm. ốm trơ xương, thiếu điều đi không nỗi trong chuyến về! Đến nửa năm 1977, trại tù Láng Cháo đóng cửa. Tù binh được dời về Khám Lớn Trà Vinh và quên dần chuyện lạ Sáu Lục.
Bây giờ, hơn mười năm sau, tôi lại có dịp ngang qua và nhắc lại. Biết bao lần đi ngang nhưng tôi không có thì giờ để ghé. Cảnh cũ còn đây nhưng người xưa còn đó hay không? Lòng tôi bỗng nhiên chùng xuống.
Minh chợt kêu lên:
-Người ta làm gì mà gánh gồng tùm lum vậy?
Từ hướng Cồn Tàu, ba bốn người gánh những thúng, giỏ, nong, nia, rỗ, ki, rế nồi... đương bằng tre đang đi trở ra.
Tôi không dấu được nỗi xót xa:
-Họ là những người Kmer ở tuốt bên Đại An, Hàm Giang, chuyên sống bằng nghề đương đát. Chắc chuyến này bán ế, họ đang đi lần về nhà. Tội lắm, đồ này gánh muốn gãy xương sống nhưng bán rẻ như bỏ. Mình làm không nỗi đâu.
Minh cũng buồn lây:
-Không còn nghề nào đỡ hơn sao?
-Đỡ gì nỗi! Lúa thất, đất cằn, việc làm không có, sẳn có nhiều tre trúc nên làm đại nghề đương đát kiếm cơm.
Đại An, Hàm Giang thuộc quận Trà Cú, đa số là người Kmer. Không hiểu vì sao dân cư ở đó phần đông nghèo khổ quá. Những ngày mùa hạn, họ dẫn nhau đi từng đoàn qua Kinh Đào, Cái Đôi, Long Khánh, Đình Cũ của quận Long Toàn, là những nơi có nhiều ruộng nuôi tôm, để chủ ruộng nào cần người đào đất, sên mương thì chạy ra gọi vào. Công xá tính theo tầm, theo thước. Nhìn họ dồn tất cả sức lực vào cái gàu ống, ném từng thỏi đất nặng trĩu lên bờ cao nghệu, ai có lòng từ tâm đều không khỏi xót thương. Những người đi bán đồ tre trúc này càng đáng thương hơn. Từ bến đò Đôn Châu, họ đi đò qua Kinh Đào. Từ Kinh Đào, họ gánh hàng theo lộ cái đi dần lên, tới đâu bán tới đó. Khổ nỗi, con lộ độc đạo ấy lại đúng ngay hướng gió chướng ào ạt từ Long Toàn thổi xuống. Bạn sẽ nghĩ gì khi thấy những con người đen đủi, ốm nhom, còng lưng gánh nặng đang chống chỏi với cơn gió vô tình quái ác? Đôi lúc lại có hai người chung vai gánh nguyên một cái giường tre! Buồn cười nhưng rớt nước mắt không hay!
Minh và tôi tự dưng im lặng. Không biết vì đâu. Xe vẫn chạy rì rầm trên con đường đất nhỏ vắng tanh, hai bên là những lùm cây lức mọc dày đặc trong dãi đất bỏ hoang, và không xa lắm, những đụn cát trắng im lìm với hàng phi lao chớn chở che khuất biển xanh ngay chân phía ngoài. Khi chòm nhà đầu tiên hiện ra, tôi chạy xe chậm lại:
-Tới Cồn Trứng rồi. Anh muốn xuống ở đâu?
   Đến lúc nầy, Minh mới hỏi tôi:
-Anh biết nhà ông Sáu Ngời không? Bác ruột của tui đó.
   Tôi phân vân:
-Phải ông Sáu Ngời đã chết mấy năm rồi không?
-Đúng rồi. Tui về dự đám giỗ đây. Anh biết ổng sao?
-Còn hơn vậy nữa, tui mang ơn ổng.
Năm xưa, đám tù tụi tôi bị đem ra Cồn Tàu gần hai tháng để đắp bờ ngăn nước mặn. Không có sẳn trại giam nên Cộng Sản gởi mỗi nhà dân quanh đó hai ba tên tù. Sáng sớm tập trung đi vào rừng lao động, tối về tự nấu nướng, ngủ nghê. Tôi và Phạm Vĩnh ở trong nhà của một cặp vợ chồng son. Thủy, người vợ, tối ngày nhiếc chồng là đồ làm biếng nhớt thây. Năm Dơi, người chồng, ngày nào cũng than thở, "chắc tui sống không lâu quá!"
Nhà lá chật hẹp, giường ngủ của vợ chồng Năm Dơi phía sau vách lá vàng bạc và cái giường nống chà là dành cho tụi tôi lại đâu đầu ngay tấm vách mỏng đó! Vì vậy, tụi tôi hiểu được tại sao Năm Dơi kêu trời, kêu đất. Dĩ nhiên, hai tên tù đói khát đủ thứ này cũng trắng mắt, kêu đất kêu trời! Sau này, tình cờ gặp lại Thủy ở bến đò Long Toàn, tôi hỏi dò:
-Anh Năm cấp rày khỏe không?
Thủy phấn khởi:
-Khỏe hơn trâu! Bây giờ đứng bán tiệm có gì đâu mà mệt!
Thì ra, chuyện trời đất cũng đâu đến nỗi làm người ta sống không lâu. Đừng lo!
Những ngày ở Cồn Tàu, chủ nhật nghỉ, đám tù đi lang thang đầy đường. Không phải đi chơi, ngắm cảnh mà là đi kiếm ăn. Người đi thụt cá kèo, móc cua, đào ba khía. Người thả rề rề đầu làng cuối xóm để coi có ai kêu vào mướn đào đìa, cuốc cỏ gì chăng hầu có được vài đồng mua thuốc giấy, đồ ăn.( Mười mấy năm sau, những người nghèo đói bên Trà Cú đi tìm nơi làm mướn cũng y chang như vậy).Tôi theo vài tên khác lén bơi qua cái mương lớn đến ấp giáp ranh, Cồn Trứng. Ở đây, tụi tôi được một ông già gọi vào đào đìa. Ông Sáu Ngời. Ông nói:
   -Mấy cháu cứ từ từ mà làm. Chừng nào rồi cũng được.
   Trước khi vào việc, ông cho đám cu-li-bất-đắc-dĩ ăn một bữa cơm có đầy đủ rượu thịt - bữa cơm Phiếu Mẫu ngon nhất trần đời. Rồi đến khi làm việc, cứ một lúc ông lại đi ra kêu cả đám lên bờ hút thuốc, ăn đường thẻ, uống nước trà! Bởi vậy, mặc dù làm việc thiệt tình, đến xế chiều cả đám đào chưa được phân nửa! Ông Sáu Ngời vẫn vui vẻ nói, "đi đâu mà gấp", rồi cho mỗi người một số tiền cùng với một bộ đồ và dặn tuần sau tới làm tiếp. Đang cơn đói ăn, thiếu mặc, hơn nữa đang sống trong quê hương, giòng họ của quân thù, chúng tôi như từ trên trời rơi xuống. Đêm đó, hỏi khéo Năm Dơi về ông già tốt bụng ấy, tôi chới với khi biết đó là một đảng viên kỳ cựu, từng giữ chức xã đội trưởng Trường Long Hòa trong những năm chiến tranh, bây giờ coi như về hưu (vì đâu có lương tiền gì!) sống bằng nghề lưới biển và cho mướn đám lá dừa nước rộng ngút ngàn. Con cháu của ổng lũ khũ. Một mớ đã rửa giò trèo lên bàn thờ làm liệt sĩ. Một mớ thoát chết mặt mày xanh mét đang làm việc khắp nơi trong huyện này.
Bây giờ lại té ra thêm một đứa con cháu có gốc "ngụy" tên Minh này nữa! Tôi bán tín bán nghi:
-Anh biết nhà ổng không?
Minh cười:
-Biết chớ.            
Và hắn chỉ đúng căn nhà dưới hàng dừa cao có cái đìa rộng ở vườn sau, nơi mà ngày xưa tụi tôi đã "đi đâu mà gấp" suốt 3 cái chủ nhật mới xong!
Tôi yên chí, vậy là tay nầy không ba xạo. Quốc gia, Cộng sản cùng trong một nhà, chuyện nầy đâu có gì lạ trong cuộc chiến Việt Nam. Tôi nói:
-Vậy thì sẳn dịp, tui cũng ghé vào thắp nhang cho bác Sáu. Tội nghiệp ông già, mới gặp đó mà đã khuất bóng mấy năm rồi.
Xong đâu đó, tôi trở ra bến đò tìm chuyến khác. Minh ở lại và không biết đến bao giờ mới về lại Xuyên Mộc. Tôi gần như quên bẳng người khách xa xôi này.
Cuối năm 96, sau một năm giấy tờ trật vuột, cả nhà tôi được qua Mỹ định cư trong diện tù cải tạo. Xứ lạ quê người, không một người bà con dòng họ, chúng tôi quen dần với cuộc sống chẳng có gì vui.
Một ngày chủ nhật, theo thói quen, vợ chồng tôi đến chợ trời giải khuây. Người bán, người mua lao xao giữa trời xứ xa gợi nhớ những buổi chợ quê nhà. Ôi, những buổi chợ mưa ngập lối đi, những buổi chợ nhóm từ lúc trời chưa sáng, le lói ngọn đèn dầu nghèo khó thương yêu.
Chằng Lửa, biệt danh thân thương do tôi đặt cho vợ, chợt chỉ tay về phía cuối dãy. Một người đàn ông vác cây cần câu đang bước đi chậm rãi, lưng quay lại.
-Anh dùm hỏi ông kia mua cần câu ở khu nào và giá bao nhiêu?
Tôi lựng khựng:
-Câu kéo ở đâu? Hỏi làm gì!
Chằng Lửa nằn nì:
-Lẹ đi, để ổng đi mất bây giờ.
Tôi càu nhàu, "cần câu ngời ngời như cây ăng-ten làm sao mà mất!" và luồn lách đám đông, bước vội theo người đàn ông. Mái tóc đen, vóc dáng người châu Á. Khi đến sát sau lưng, tôi nói bằng tiếng Mỹ cho chắc ăn:
-Excuse me.
Người đàn ông quay lại. Trong một lúc, cả hai đứng ngớ ra. Hắn nhìn tôi, mắt nheo lại vì suy nghĩ. Tôi nhìn hắn, bàng hoàng vì vết thẹo thâm đen giữa trán. Và như tia chớp, cả hai đều nhận ra nhau ngay.
-Hiệp xe ôm đó hả?!
-Minh khách ôm tui đó hả?!
Hai người cố tri cười vang trời tha hương. Có niềm vui nào lớn bằng?
Tôi hỏi:
-Anh đi năm nào? HO mấy?
Minh cười hề hề:
-Không ho hen gì hết! Đi ngay đêm sau bữa gặp anh, bằng chiếc ghe cào của con ông Sáu Ngời! Mà tui cũng không phải là cháu chiếc gì của ổng! Che mắt công an vậy mà. Đi bằng ghe của con nhà đảng viên chắc ăn như bắp, phải không?!
Tôi kêu trời từng chặp. Đời tôi hình như hay gặp những chuyện khác thường. Lần này, tôi kêu trời nhưng không phải như lúc ở Cồn Tàu đâu nhé!
 PHẠM CHINH ĐÔNG


Ở Bến Xe

Có thể chiều nay khi chúng mình đứng ở đây
Nhìn từng chiếc xe đò rời phố chợ,
Anh muốn ngủ vùi trong mắt em đen láy
Để đừng phải nói lời tạ từ.

Đúng rồi đó em, cuộc đời là bến nhỏ
Và chuyện đời người là trăm vạn đường chia.
Nên lời yêu đương đôi khi vội vã
Thiết tha trên bước chân về.

Mình đừng nói gì trong giây phút này nhé em
Hãy nghiêng vành nón nhìn nắng trưa ngất ngưỡng
Cho ta được nhớ những trăm đời
Đôi mắt em buồn, giòng nước mắt rưng rưng.

Phạm Chinh Đông