Con người ta sinh ra, ai thoát khỏi: sinh, lão, bệnh, tử? Theo thuyết của nhà Phật, thì đó là 4 giai đoạn của cuộc đời mà người nào cũng phải trải qua. Sinh, Trụ, Hoại, Diệt là định luật của tạo hóa, không có cách chi thay đổi được. Cây cối đâm chồi nảy lộc vào muà xuân, xanh tốt xum xuê trong mùa hè, lá héo vàng vào mùa thu, đến mùa đông thì lá vàng rơi rụng, chỉ còn trơ trụi cành cây. Rồi tới mùa xuân năm sau, cây lại đâm chồi nảy lộc. Cái chu kỳ sinh, trụ, hủy, diệt cứ tiếp nối nhau, không ngưng nghỉ.
Đời người là bể trầm luân, cõi thế gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa mới sinh ra cất tiếng khóc oa oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao nhiều mộng đẹp. Thoắt một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2 chân đã chậm chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại trên thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra được..
Đời người như giấc mộng. Người ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế mà, con người ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa vị, danh vọng, không có thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa. Cũng ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những cái vô thường của tuổi gìa,. Đến khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã mờ, chân đã chậm thì mới giật mình, rồi buồn phiến, thất vọng, nuối tiếc. Khi đó, bao nhiêu tiền của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này, cữ thứ kia vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm răng cái rụng, cái lung lay. Đi chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu gối đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng
ngãng, mắt đã kèm nhèm.
Người VN mình vốn cần kiệm, chăm làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc thì liên miên quên cả cuối tuần, bất kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người Âu Mỹ..Suốt đời cặm cụi, ăn nhịn để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai khi chết thì đẻ lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi. Người xưa đã nói:
Một năm được mấy tháng xuân
Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa
Và:
Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi
Bo bo giữ lấy của trời làm chi
Bẩy mươi chống gậy ra đi
Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi
Con người có tham vọng, có nhu cầu nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên mất chữ “nhàn”. Những thứ vô thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần:
Ông Cả ngồi trên sập vàng
Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo
Ông bếp ngồi cạnh đống tro
Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm
Hoặc là:
Đời người sống mấy gang tay
Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm
Hoặc là
Ăn con cáy, đêm ngáy o..o
Còn hơn ăn con bò, mà lo mất ngủ.
Người xưa tuổi thọ kém, ngay tới vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi. Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống được tới 70).
Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn. Những phát minh của ngành Y, Dươc đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh hiểm nghèo, mà người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi, bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống tới 80, 90 tuổi không phải là ít. Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy thì cần phải giữ cho thân tâm được an lac.
Tâm thân an lạc là biết vui với những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận những điều mình không thể nào tránh khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm. Lớn tuổi thì không làm ra tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có khoản tiền trợ cấp cho người gìa để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con cháu. Các cụ gìa nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá khiêm nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè. Gìa thì phải chịu đau nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách phận, cau có, gắt gỏng, đã không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy, thương cảm cho những người xung quanh.
Ở đời mỗi người một cảnh, vui với cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh. Biết đủ thì đủ (Tri túc, tiện túc). Người ta bảo trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm (bonus) của thượng đế. Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng những ân sủng mà không phải ai cũng có được.
Đời sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với cuộc sống
Đời người là bể trầm luân, cõi thế gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa mới sinh ra cất tiếng khóc oa oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao nhiều mộng đẹp. Thoắt một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2 chân đã chậm chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại trên thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra được..
Đời người như giấc mộng. Người ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế mà, con người ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa vị, danh vọng, không có thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa. Cũng ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những cái vô thường của tuổi gìa,. Đến khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã mờ, chân đã chậm thì mới giật mình, rồi buồn phiến, thất vọng, nuối tiếc. Khi đó, bao nhiêu tiền của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này, cữ thứ kia vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm răng cái rụng, cái lung lay. Đi chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu gối đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng
ngãng, mắt đã kèm nhèm.
Người VN mình vốn cần kiệm, chăm làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc thì liên miên quên cả cuối tuần, bất kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người Âu Mỹ..Suốt đời cặm cụi, ăn nhịn để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai khi chết thì đẻ lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi. Người xưa đã nói:
Một năm được mấy tháng xuân
Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa
Và:
Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi
Bo bo giữ lấy của trời làm chi
Bẩy mươi chống gậy ra đi
Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi
Con người có tham vọng, có nhu cầu nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên mất chữ “nhàn”. Những thứ vô thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần:
Ông Cả ngồi trên sập vàng
Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo
Ông bếp ngồi cạnh đống tro
Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm
Hoặc là:
Đời người sống mấy gang tay
Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm
Hoặc là
Ăn con cáy, đêm ngáy o..o
Còn hơn ăn con bò, mà lo mất ngủ.
Người xưa tuổi thọ kém, ngay tới vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi. Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống được tới 70).
Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn. Những phát minh của ngành Y, Dươc đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh hiểm nghèo, mà người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi, bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống tới 80, 90 tuổi không phải là ít. Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy thì cần phải giữ cho thân tâm được an lac.
Tâm thân an lạc là biết vui với những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận những điều mình không thể nào tránh khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm. Lớn tuổi thì không làm ra tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có khoản tiền trợ cấp cho người gìa để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con cháu. Các cụ gìa nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá khiêm nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè. Gìa thì phải chịu đau nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách phận, cau có, gắt gỏng, đã không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy, thương cảm cho những người xung quanh.
Ở đời mỗi người một cảnh, vui với cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh. Biết đủ thì đủ (Tri túc, tiện túc). Người ta bảo trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm (bonus) của thượng đế. Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng những ân sủng mà không phải ai cũng có được.
Đời sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với cuộc sống
Cánh Cò Quê Mẹ
Lâu lắm, tôi mới có dịp về thăm quê mẹ. Ngôi làng nghèo bé nhỏ nằm heo hút giữa biển đông, sông Vệ và núi Phụng, vẫn ở đó và không hề thay đổi dù năm, dù tháng đã đi qua. Vẫn con đường làng đất đỏ sâu hun hút giữa những rặng tre mồ côi xanh ngắt. Vẫn cánh đồng lúa ngày lên đòng, lá dày như những thanh kiếm nhỏ lưỡi nhọn vút lên trời. Vẫn hàng cau liên phòng tán nhỏ và đều, thân tăm tắp đợi bầy chim sẽ về làm tổ trong tiết xuân phân.
Dường như ở quê mẹ, những đám mây trời cũng khác, mây trắng đuôi chồn, vảy cá chuồn cá nục kéo dày từng lớp như một cánh đồng trên nền trời xanh vời vợi. Và gió, chưa bao giờ trong đời tôi lại thấy gió nhiều đến như vậy. Gió lớn thổi thao thiết qua dòng sông, bầu trời và cánh đồng lúa, mang theo mùi hương của cỏ nội ngày nở hoa dọc suốt những con đường nhỏ. Một buổi sáng thanh thản ở quê mẹ, tôi ra ngồi trước hiên nhà. Nắng ban mai trổ lên màu xanh khu vườn xưa một màu hồng tươi rực rỡ. Từ hiên nhà, có thể tha hồ ngắm từng đàn cò trắng đi ăn sớm. Ôi những cánh cò đẹp một vẻ đẹp chơn chất đồng quê. Chưa năm nào cò về đồng nhiều như vậy, đậu trắng phau những chân ruộng xanh non. Màu trắng - xanh tạo ra một vẻ bình yên chỉ có ở đồng quê. Buổi sáng bầy cò lũ lượt kéo nhau đi ăn. Chiều xuống lại lũ lượt kéo nhau về chốn cũ. Chỗ trú ẩn của đàn cò là gò bãi nổi giữa dòng sông. Hình ảnh đàn cò hạ độ cao, bay là đà trên mặt nước khi chiều xuống đẹp một cách kỳ lạ. Tôi đứng chôn chân bên dòng sông ngắm mê mải những dáng bay dịu dàng cho đến khi những cánh cò thấp dần và khuất sau cồn cát xanh xanh loài hoa muống biển.
Có gì trong cuộc đời cò mà làm thao thức tâm hồn tôi đến vậy.
Ðã từ lâu lắm trong tuổi thơ tôi, cánh cò là một phần nhưng là cái phần đau đớn nhớ thương của quê hương. Cành cò bay lả bay la gợi lên những câu chuyện cổ tích sặc sỡ sắc màu, cánh cò chiều đông bay bạt gió gợi lên hình ảnh mẹ lặn lội giữa đồng sâu. Mối liên tưởng cánh cò - dáng mẹ là nỗi ám ảnh suốt đời những ai đã từng có một tuổi thơ nghèo khó ruộng đồng. Xa khuất sau cánh cò - dáng mẹ là thầm lặng một nỗi biết ơn trời bể. Từ chín tháng mười ngày, mẹ đã sinh con, đã có lúc khổ nhục nuôi nấng con nên người. Máu, mồ hôi và nước mắt của mẹ là những bài học lớn, là gia tài cho con mang theo trong suốt cuộc làm người. Trong dáng cò, mẹ hiển hiện là biển xanh đồng rộng, mẹ là ánh bình minh ngày mới, là dòng sông, bầu trời và những hạt sương mai. Mẹ là ngọn gió nồm mát rượi ngày nắng quái, là bếp lửa rơm ấm nồng ngày đông giá giêng hai. Mẹ là con đường đưa con đến lớp buổi học đầu tiên sống để làm người. Mẹ là hương hoa hồng dại lẩn khuất thơm tho suốt một tuổi thơ con. Mẹ là bầu trời đêm mùa hạ đầy sao, những ngôi sao to sáng ngời vĩnh cửu. Mẹ là mặt đất rộng lớn cưu mang vàn vạn sự sống của chim muông, hoa lá và cỏ cây. Mẹ là Mẹ, cánh cò xưa buồn vui suốt đời dịu dàng, nhẫn nại, che chở đời con từ ấy vuông tròn...
Có những năm tháng tôi đi học xa, cánh cò quê mẹ vẫn cứ bay hoài trong những giấc mơ về sáng. Trong mơ, tôi thấy tôi là con cò bé nhỏ bay theo mẹ tìm mồi. Tôi bay qua những ngọn núi cao, những dòng sông rộng, và cả biển lớn. Ở trên cao, mặt đất chợt như nhỏ lại, cánh đồng lúa thành một ô bàn cờ, và những thằng bù nhìn rơm chỉ còn bé như một chú búp bê gỗ, làm bằng rơm thô và áo cũ. Và cứ thế, tôi bay trong nỗi biết ơn vô hạn cuộc đời.
Và, suốt những ngày về quê mẹ, tôi thành tôi ngày xưa trẻ dại, tôi thành tôi vô tư như ngọn nắng bên thềm, ngắm cánh cò bay mà lòng yêu thương quá đỗi cuộc đời này.
Nguyễn Xuân Hoàng
Có một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời
Trong cõi trần, có những loài cây nở hoa đẹp và buồn như những huyền thọai, như những triết nhân. Người ta khó vui được khi nhìn thấy một giàn hoa ty-gôn đỏ như màu máu vẳng về những câu thơ của TTKH. Nhìn hoa sen, lòng người chợt nhận ra lẽ vô thường thanh sạch của kiếp người. Ai đã từng có một đêm thức với hoa quỳnh, hẳn khó cầm được tấc lòng trước hình ảnh cái đẹp quá đỗi mong manh, mau chóng tàn phai. Người xưa một lần qua núi, thấy hoa lau nở trắng bạt ngàn, đã thảng thốt buông một câu hỏi buồn trong gió: Sao vừa nở ra đã vội bạc đầu thế hở lau ơi?...
Và có một lòai cây chỉ nở hoa lúc cuối đời, nở xong là chết; nở như biết mình đã đến và sẽ ra đi trong cuộc đời; nở như những giây phút dọn mình để giã từ thế giới; nở tưng bừng như điệp khúc một giai điệu tráng ca. Loài đó là TRE.
Tôi nghĩ đã là người Việt Nam, dù ở đâu và làm gì, ai cũng mang trong mình một bóng tre của quê hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, đó là nơi hội ngộ buồn vui của cả một cộng đồng người, của hàng bao thế hệ. Không biết tự bao giờ, tre đã tham dự vào cuộc sống con người như một thành tố không thể thiếu được. Chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa đã có cây tre trăm đốt. Và dẫu bây giờ nông thôn đã công nghiệp hóa, tre vẫn không thể thiếu được đối với người. Đó là cái đòn gánh có thể đàn hồi làm nhẹ vai cô thôn nữ gánh nước từ bến sông, gánh hàng ra chợ. Đó là mười sáu vành nón lá của mẹ tảo tần qua nắng qua mưa nuôi ta khôn lớn, của em dấu nụ cười e ấp mối tình đầu. Đó là giàn bí, giàn bầu nặng lòng câu ca” bầu ơi thương lấy bí cùng” mà cha ngồi hóng mát mỗi chiều. Đó là sợi lạc buộc chiếc bánh chưng xanh luôn gợi nhắc truyền thuyết Lang Liêu...Tre thủy chung một mối tình vĩnh cửu với người dân Việt.
Tre lặng lẽ hiến dâng cho đời và hy sinh tất cả. Trong hành trình dâng hiến của mình, tre dâng tặng con người âm thanh từ máu thịt của nó. Tre tạo nên tiếng sáo Trương Chi làm điêu đứng người con gái cành vàng lá ngọc. Tre tạo nên cây đàn bầu khiến cả thế giới phải nghiêng mình trước ngón độc huyền của một dân tộc, mà dân tộc ấy lại đa tình làm sao: Đàn bầu ai gảy nấy nghe, làm thân con gái chớ nghe đàn bầu! Trên non ngàn Tây Nguyên, hồn tre nứa nhập vào đàn t’rưng, nhập vào đàn klông put, đàn chim đing, đàn đinh pah, và cả ching kram (chiêng tre) nữa...tạo nên âm sắc núi rừng Việt Nam độc đáo, không nơi nào có được. Và trong những ngày hội tưng bừng trên đỉnh non ngàn này, không thể thiếu những ché rượu cần mà những chiếc cần như những chiếc cầu của tình bạn, tình yêu, của men nồng cuộc sống...
Từ măng non, tre vươn thẳng làm bạn với người, làm ngọn roi dạy dỗ con người, giúp con người bao điều trong cuộc sống, để rồi một buổi sáng kia, tre nở một chùm hoa và chết. Rất hiếm khi được nhìn thấy hoa tre nở. Cho đến nay, tôi cũng chỉ thấy hoa tre nở hai lần. Lần thứ nhất vào năm tám mươi lăm thế kỷ hai mươi. Năm đó, vào một buổi sáng mùa hè, rặng tre la ngà dọc bờ sông Bồ trước làng tôi đột nhiên bừng nở. Cả một rặng tre bung nở từng chùm hoa vàng xuộm màu thổ hoàng. Cái màu đất bình dị nổi lên nhờ màu xanh của lá, bình dị đến nao lòng. Cả lũ học trò chúng tôi hồi đó chiều nào cũng rủ nhau nhìn ra sông vì nghe nói tre nở hoa xong là chết. Nhiều đứa, trong đó có tôi, cố cãi lại lời tiên tri ấy, đến mức phải chia phe thách nhau. Nhưng ngày qua ngày, cả rặng tre từ màu xanh dần chuyển sang ngà. Cho đến một chiều nọ, không tin nổi vào mắt mình khi rặng tre cứ nhạt thếch hẳn đi, chúng tôi chạy ra xem thì thân tre đã khô lại. Trên cao kia, những chùm hoa tre khô cong rủ xuống như một bàn tay tiễn biệt. Bất giác cả bọn cứng lưỡi không nói nên được câu nào, cũng không thấy mấy đứa thắng cuộc yêu sách một điều gì. Trong làng có chú Tin đã ngoài bốn mươi vẫn còn độc thân chưa vợ. Chú xin làng chặt một cây tre về làm đàn bầu. Đêm đêm, tiếng đàn của chú nỉ non vang vọng khắp làng. Chẳng bao lâu sau thì có người chịu cùng chú kết tóc se tơ. Người già nói, tre nở hoa cả rặng như vậy là có điềm lành. Quả nhiên sau đó ít lâu thì không khí công cuộc đổi mới cũng tràn về nông thôn, đời sống của người nông dân có đỡ cực nhọc hơn. Nhưng cũng sau khi rặng tre la ngà ấy chết, làng không còn một cây tre la ngà nào nữa. Bấy giờ cả làng mới thấy do tre la ngà nhiều gai nên ít người trồng. Sau này tôi lang thang khá nhiều nơi, chú tâm tìm gặp một bóng dáng tre la ngà, ấy vậy đến giờ vẫn chưa một lần thấy lại
Lần thứ hai tôi nhìn thấy hoa tre nở chỉ mới cách đây vài năm, vài tháng sau cơn đại hồng thủy tháng 11 năm 1999. Ấy là một hôm giá rét đầu năm 2000, qua khỏi cầu TâyThành bỗng thấy một bụi tre nhỏ bên sông nở hoa trong mưa. Cũng những chùm hoa tre vàng nhạt như màu đất, vươn giữa trời xanh bất chấp mưa gió phủ phàng, rét buốt, bản lĩnh vô cùng. Bây giờ nghiệm lại, thấy loài tùng bách như người quân tử ẩn dật, tre lại như người quân tử dấn thân. Từ khi sinh ra, tre đã sống và trả nghĩa cho đất cho người, đến khi hoa tre nở lần đầu tiên, cũng là lúc tre từ giã sự góp mặt của mình trên trái đất. Đó là một cách đi vào cõi chết rất đẹp: cả tre và hoa đều chết đứng như phơi gan ruột cùng trời đất chứ không chịu rủ xuống, lụi tàn như bao loài hoa khác. Cái chết ấy không hề làm cho người ta thấy một chút bi ai nào, ngược lại, nó tạc dáng hình giữa trời đất mênh mông, giữa muôn vàn hoa lá như một triết nhân đã ngộ ra chân lý về lẽ sống chết của con người.
Hồ Đăng Thanh Ngọc
Chuyện Cuốn Sách Cũ
Từ Oregon đến Seattle khoảng ba
tiếng lái xe. Bạn dẫn đến khu Downtown, vào tiệm sách Việt Nam. Lúc đó đang là
năm 2000, trong tiệm sách thấy có cuốn sách thu hút, dễ cảm tình đối với tôi vì
có hình Nữ Thần Tự Do ở bìa, (sau này mới biết hình bìa sách là do nữ tài tử
Kiều Chinh chụp, tặng cho Việt Báo) Viết Về Nước Mỹ năm 2000). Mang được sách
Viết Về Nước Mỹ về, tôi đọc ngấu nghiến say mê. Đọc trước những mẩu
chuyện đã được giải thưởng, và rất thích bài viết của tác giả tựdo Nguyễn Văn
Luận, tựa bài “người đi tìm tự do và tượng nữ thần tự do”. Bài viết của ông rất
cảm động. Đọc thêm nhiều bài viết nữa.
Từ đó đền nay, việc đọc những bài Viết Về Nước Mỹ hàng ngày trên Việt Báo
Online, rồi mua sách đọc sách Viết Về Nước Mỹ hàng năm, với tôi đã trở
thành thói quen ,
*
Một bữa tiệc ra mắt bà chị Việt Nam qua Mỹ du lịch, bạn của chị: chị bạn
Seattle qua chung vui. Chị Seattle hỏi giỡn:
“Hà ơi, em có quảng cáo dùm hai ông bà Nhã Ca (NC) và Trần Dạ Từ (TDT) không
vậy?”
Tôi ngạc nhiên. Chị Seattle nói thêm:
“Vì thấy nhà em nhiều sách viết về nước Mỹ, có hình bìa Tượng Nữ Thần Tự Do...
sách này do hai ông bà NC và TDT sáng lập ra...”
Tôi chưa kịp trả lời câu hỏi. Bà chị Việt Nam của tôi:
-Ủa, NC và TDT còn sống hả? Tưởng là họ bị việt cộng....
Chị bạn Seattle:
“Tụi mình gọi phôn cho Việt Báo xin hẹn gặp, cho mi được nhìn tận mặt hai vị
đó...”.
Tôi khoe hai chị thiệp mời do Cô Quyên gửi (năm 2008).
“Em rất muốn được tham dự Giaiû Thưởng Viết Về Nước Mỹ, email hỏi Cô Quyên giá
tiền vé vào cửa? Cô Quyên trả lời: vé không bán, sẵn sàng mời em
tham dự, dù em không có tên trong giải thưởng, vì em mong được nhìn thấy tất cả
những thân tình Việt Nam xa xứ với những nỗi niềm tâm sự được viết ra, mọi
người cùng đọc, cùng chia sẻ buồn vui nơi xứ người. Em nhận được giấy mời rồi,
vui lắm, rất là hồi hộp. Hẹn bạn Thảo ở Cali cùng đi. Nhưng, khi mua vé máy bay
trên internet , nhìn cuốn lịch đã ghi sẵn những ngày quan trọng trong tháng,
mới biết Lễ Cưới của người cháu trùng với ngày Dự Lễ Phát Thưởng của Việt Báo.
Lễ Cưới chỉ có một lần trong đời người cháu ruột thịt con ông anh. Đành hẹn cô
Quyên năm sau và tiếc nuối, tiếc ơi là tiếc.
Nhớ lễ cưới người cháu năm ấy, vợ chồng tôi đến trễ, vì Freeway đang sửa, phải
đi hướng khác, tìm đường loanh quanh mãi.
Đến nơi, không tìm thấy chỗ đậu xe, vòng vòng một hồi, hai vợ chồng cũng vừa
vào đúng lúc đang giới thiệu bà con hai họ. Ông anh, bên đàng trai:
“Tôi không biết nói gì hơn, rồi giới thiệu tiếp, rồi lại
“Tôi không biết nói gì
hơn...” cứ như vậy, lê thê dài, em bé mới sinh của chị cô dâu cũng được giới
thiệu, thằng bé cháu hai tuổi bị Mẹ nó trợn mắt, khóc om xòm vì không chịu lên
sân khấu khi được gọi tên... Rồi... tiệc cũng được bắt đầu, nhạc trổi lên lớn
quá, nhức đầu, nhức đầu lắm, rất muốn lên sân khấu nói trực tiếp với ban
nhạc, nhưng vì các bàn tiệc quá gần nhau, chật cứng khó nhúc nhích, bàn
tôi ngồi ngay cửa ra vào xa sân khấu. Vậy mà Ơi, vẫn chói tai, nhức đầu
quá! Ra xe trốn tiếng ồn và thầm tiếc phải chi đi dự Lễ Trao giải VVNM
năm 2008.
Tôi hỏi bà chị Việt Nam:
“Ngày về Việt Nam, em có tặng chị cuốn sách VVNM năm 2001, chị còn giữ?”
“Ờ, lúc đó, chị sợ quá em à, chị đem bán ve chai, chị sợ việt cộng biết chị có
cuốn sách với cái hình Tượng Thần Tự Do....”
“
Chị ơi! Em hỏi vậy thôi, chứ em đã thấy lại cuốn sách đó ở chợ Tân Định. Ông
cụ ngồi vỉa hè bán đủ thứ lặt vặt, sách còn nguyên chữ viết em tặng chị, em mua
lại và hỏi ông có đọc? Ông cũng đọc, nhưng ông già cũng sợ như chị vậy
đó. Cuốn sách nhàu nhì cũ, em nghĩ nhiều người cũng đã đọc. Cuốn sách
chắc đã được đi vòng vòng sau hai năm ngày em tặng chị.
Chị Việt Nam than thở: “Cái xứ gì đâu mà chả có con ma nào hết...”.
Chị bạn Seattle:
“Chứ mấy con ma nào đang ngồi bên cạnh mi đây?”
Thương chị tôi chậm chạp, qua xứ Mỹ nhìn cái gì cũng lạ: “Tại sao ban
ngày mà nhà ai cũng đóng cửa như ban đêm? Xóm vắng người qua lại, yên tĩnh quá,
phố xá sạch, cỏ mọc xanh tươi...”. Chị ngạc nhiên nhất: “Người lái máy bay là
phái nữ trên chuyến bay của chị...”, có lẽ mải suy nghĩ khâm phục phụ nữ người
Mỹ ;ái máy bay, chị quên cái Passport trên chuyến bay đó và không nhớ đã lạc
mất ở đâu.
Con gái của chị kể chuyện đưa mẹ đến cái văn phòng Sứ Quán của Việt Nam ở Xăng
Phăng. “Lãnh Sự Quán vốn có nhiệm vụ bảo vệ cho người dân còn ở VN qua Mỹ du
lịch xứ người. Con bé qua mấy tầng thang máy vào văn phòng, gặp một chị Việt
Cộng (VC) “tiếp dân”, chị nhìn con bé bằng nửa con mắt, con bé ngồi chờ gọi
tên, cầm trên tay cuốn VVNM 2001 (vẫn cuốnsách tôi đã tặng Mẹ của cháu năm xưa,
mua lại từ ông già ve chai chợ Tân Định), thói quen đọc sách của con bé khi chờ
đợi ở văn phòng.
Chị VC hỏi: “Tại sao Mẹ của cô lại làm mất Giấy Thông Hành? Thêm nhiều câu hỏi
“tại sao”, con bé thầm nghĩ: công việc của cô ta ở văn phòng này chỉ để hạch
hỏi hai chữ tại sao. Thêm câu hỏi: “Tại sao tên của cô (tên con bé ) trên giấy
tờ không có dấu sắc, dấu ngã...”.
Sau nhiều lôi thôi, rắc rối thủ tục giấy tờ hành chánh (hành dân là chánh), con
bé cầm được trên tay cái giấy Passport tạm thời của Mẹ, cầm thật chặt, và chỉ
vào cái dấu đỏ chót:
“Thưa cô VC, nhìn kỹ lại đi, tại sao tên của vị Đứng Đầu Xứ Quán VN trong cái
dấu đỏ choé này, cũng không thấy dấu sắc hay dấu huyền ...”. Khỏi cần chờ trả
lời, con bé cùng Mẹ “chạy nhanh” ra cửa. Con bé đã quên và để lại văn phòng
lãnh sự ấy cuốn sách VVNM 2001...
Đó là số phận cuốn sách em đã tặng chị, không hiểu nó lại vòng vòng ở đâu?
Kỷ niệm với sách VVNM có nhiều với tôi, đam mê đọc sách nên cứ nghĩ ai cũng
giống mình. Bạn tôi, đang chuẩn bị qua Mỹ du lịch, bạn hỏi tôi về chuyện tìm
việc làm tạm khi đến Mỹ, tôi email gửi về cho bạn bài viết của tác giả Hà Kim,
tựa bài “Qua Mỹ Du Lịch Làm... Oshin”. Bạn giận tôi: “Ta mà làm Oshin
hả?” Tôi nghĩ: vì bạn chưa đọc hết bài viết để hiểu rõ bài viết nói gì.
Cũng nhờ sách VVNM tôi tìm được người thân quen trong cuộc sống: vợ chồng anh
chị Nguyễn Thế Thăng, cùng tiểu bang Oregon, qua bài viết cảm động “Người Việt
Gốc Mỹ”.
Cùng ngày anh chị Thăng và cháu gái dự Lễ Trao Giải Thưởng của Việt
Báo năm 2008, buổi sáng Oregon, bó hoa cùng tôi, đi tìm Phần Mộ của vợ
chồng Micheal trong câu chuyện.
Sống ở Mỹ mười sáu năm rồi, lúc nào tôi cũng hẹn với riêng mình: một ngày nào
đó sắp xếp công việc làm, sẽ đi thăm để nhìn tận mắt bức tượng Nữ Thần Tự Do ở
New York. Cám ơn Việt Báo cùng tất cả Ban Tổ Chức Sáng Lập ra mục VVNM này, có
dịp để nhiều người được tâm sự. Vậy mà bây giờ cũng đã được mười năm tròn kỷ
niệm.
Châu Hà